Sông Tuyết, sông Hàn và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Theo tài liệu trên  bản đồ thời Nguyễn (Đồng Khánh) của phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương ở trên chúng tôi  thấy:
       Từ phía thượng nguồn có ba sông là Thiên Đức 天德江, Triêm Đức 澹德江và Nhật Đức 日德江 cùng với sông Thiên Nhãn 鳳眼江 đổ về Lục Đầu Giang 六頭江, rồi sau đó thành hai ngã rẽ, một nhánh đi về hướng Đông, qua phía Bắc huyện Chí Linh và sang huyện Đông Triều.
       Một nhánh nữa từ Lục Đầu Giang xuôi về phía Nam qua huyện Cẩm Giang, huyện Thanh Lâm (nay là Nam Sách), thủ phủ tỉnh Hải Dương, huyện Thanh Hà, huyện Tứ Kỳ, huyện Tiên Minh (Tiên Lãng), huyện Vĩnh Bảo và đổ ra cửa biển Thái Bình. 新明先明
       Đoạn từ Lục Đầu Giang tới xã Hàm Giang 邯江, huyện Cẩm Giang 錦江 được gọi là sông Lâu Khê 樓溪江 vì chỗ thượng lưu sông từ xã Lâu Khê, tổng La Đôi 羅堆總, huyện Thanh Lâm 青林縣 (nay là Nam Sách-Hải Dương).
       Đoạn từ xã Hàm Giang 社, tổng Hàm Giang 邯江總, huyện Cẩm Giang đến huyện Tân  Minh 新明 được gọi là sông Hàm hay Hàm Giang (邯江).
       Đoạn tiếp theo chảy qua xã Kim Đới (金帯), tổng Hà Đới (河帯) huyện Tân Minh (新明) sau gọi là tiên Minh (先明) nay là Tiên Lãng (先浪), đổ ra cửa biển gọi là sông Kim (金江 Kim giang), cửa bể nơi này gọi là Kim hải khẩu (金海口) vùng  bể này gọi là bể Kim (金海). sau này gọi là cửa Thái Bình.   (太平口)
       Vào thời nhà Mạc (1527 – 1592), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt cho khúc sông qua địa giới huyện Vĩnh Lại vào văn chương của Người là Hàn Giang (寒江), theo nghĩa đen là sông Lạnh (còn gọi là sông Tuyết雪江), bởi vì nhà cụ Trạng nằm ngay bên triền Hữu của sông.  Như vậy sông Hàn phần cuối của sông Kim, cũng là phần cuối của sông Hàm (邯江) khởi đầu từ sông Lục Đầu giang (六頭江).
       Từ khi Cụ trạng trình đặt tên cho dòng sông Hàn (寒), do tiếng tăm của của cụ quá lớn nên người ta đều gọi cả con sông lớn là sông Hàn (寒), mặc dầu trên địa đồ vẫn ghi là sông Hàm (邯), còn tên sông Kim (金) sau  thời cụ Trạng trở về đây không mấy người nhắc tới nữa. sau này sông Kim và sông Hàn đều gọi là sông Thái Bình.
       Như vậy sông Hàm bắt nguồn từ Lục Đầu Giang (Hải Dương), đoạn đầu tiên gọi là sông Lâu Khê, đoạn thứ hai gọi là sông Hàm, đoạn thứ ba gọi là sông Kim, đoạn cuối cùng gọi là sông Hàn (sông Tuyết ) sông Hàn tính từ xã Đông Quất (Cầu Đăng bây giờ) tới ngã ba Ba Giai (Ba Ra) nơi giao lưu với sông Hóa.
       Minh chứng là các bài thơ của cụ Trạng viết về sông Hàn và sông Kim
       Các bài thơ viết về sông Hàn
       BÀI 1
       津館寓興
       消長隨時知物理,
       窮通有命豈吾憂。
       這般真假誰能會,
       一曲寒江一釣舟。
       Phiên âm:
       Tân quán ngụ hứng
       Tiêu trường tuỳ thời tri vật lý,
       Cùng thông hữu mệnh khởi ngô ưu.
       Giá ban chân giả thuỳ năng hội,
       Nhất khúc Hàn Giang nhất điếu chu.
       Dịch nghĩa:
       Hiểu ra suy thịnh tùy thời thế
       Biết rằng số mệnh vốn do trời định, có gì phải lo
       Không phải suy tư về thật, giả ở đời
       Trên sông Hàn vui với chiếc thuyền câu
       Dịch thơ:
       Mạnh yếu tùy thời xưa vẫn thế
       Bĩ hưng do mệnh có chi đâu
       Mặc ai thật giả hoài công nghĩ
       Một khúc Hàn Giang buông lưỡi câu
       BÀI 2
       慾認一真天定處
       寒江秋水月明游
       Phiên âm:
       Dục nhận nhất chân thiên định xứ
       Hàn giang thu thủy nguyệt minh du
       (Ngụ hứng)
       Dịch nghĩa:
       Muốn biết được chân lý, cơ trời ở đâu
       Hãy chọn đêm rằm trung thu ngắm trăng trên sông Hàn
       Dịch thơ:
       Muốn xem thiên lý cơ trời
       Sông Hàn chờ ngắm trăng soi đêm rằm
       BÀI 3
       中新館禺興
       數間江館甫江津
       水國為茫兩岸分
       風穩帆歸寒普月
       天情龍現遠山雲
       Phiên âm:
       Trung Tân quán ngụ hứng:
       Sổ gian giang quán phủ giang tân
       Thủy quốc vi mang lưỡng ngạn phân
       Phong ổn phàm quy hàn phổ nguyệt
       Thiên tình long hiện viễn sơn vân
       Dịch nghĩa:
       Vài gian quán lá ở bên sông
       Dòng nước chảy giữa đôi bờ
       Gió nhẹ, buồm trôi, khí lạnh thấm vào ánh trăng
       Trời quang, rồng hiện ra ở núi mây xa xa.
       Tác giả Hoàng Việt Dịch như sau:
       Vài gian nhà lá tựa bên sông
       Thấp thoáng hai bên giữa một dòng
       Gíó nhẹ  buồm xuôi trăng bến lạnh
       Trời quang rồng hiện núi mây hồng
       Bài thơ của cụ Trạng viết về bể  Kim:
       QUÁ KIM HẢI MÔN KÝ
       過金海門記
       洪洲形勝地
       金海門得名
       輈堅協荊棘
       咽喉控太平
       東來征派遠
       西邑雪江青
       岸樹木中現
       鸂禽天外鳴
       ……
       Dịch thơ:
       Hồng châu hình thắng địa
       Kim hải môn đắc danh
       Châu kiên hiệp kinh cức
       Yết hầu khống thái bình
       Đông lai chinh phái viễn
       Tây ấp Tuyết Giang thanh
       Ngạn thụ mộc trung hiện
       Khê cầm thiên ngoại minh
       ……
       Dịch nghĩa:
       Đất Hồng châu nổi tiếng
       Cửa Kim Hải lừng danh
       Ngựa xe chen qua lại
       Cửa ngõ của Thái Bình
       Phía Đông đường xa tắp
       Xóm Tây, sông Tuyết  xanh
       Trên bờ cây rợp bóng
       Chim le kêu ngoài ghềnh
       Chú thích:
       Kim Hải môn: Cửa bể Kim , nay là cửa bể Thái Bình
       Hồng châu : Châu Hạ Hồng (phủ Hạ Hồng),  trấn Hải dương
       Bài thơ Qua Trình Tuyền miếu:
       La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đời sau ghé thăm quê hương Trạng Trình thấy bùi ngùi nhìn cảnh vật hoang tàn bên sông Kim, cảm thán bằng bài thơ Qua Trình Tuyền miếu, nguyên văn:
       過程泉廟
       片語全三姓
       渾敦未異良
       庵空碑亦盡
       流洛雪金江
       Dịch thơ:
       Qua Trình Tuyền miếu
       Phiến ngữ toàn tam tính
       Hồn đôn vị dị lương
       Am không bi diệc tận
       Lưu lạc Tuyết Kim Giang
       Dịch nghĩa:
       Dùng vài câu nói ngắn mà bảo toàn cho ba họ
       Tuy hồn nhiên mà mấy ai đoán được
       Nay Am không còn mà bia đá cũng mất
       Sông Tuyết Kim vắng vẻ đìu hưu
       Tác giả Vũ Hoàng dịch như sau:
       An toàn ba họ chỉ vài câu
       Mấy kẻ trên đời hiểu ý sâu
       Am xưa, bia đá nào đâu tá
       Chỉ thấy sông Kim lạnh ráng chiều
       Chú thích:
       Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 – 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, ẩn cư ở Nghệ An. Ông là người khi được vua Tây sơn Nguyễn Huệ thỉnh giáo đã khuyên xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô – thủ đô mới của Vương triều Tây Sơn.
       Nguyễn Thiếp sinh ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723) tại làng Mật, xã Nguyệt Áo, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là người ham đọc sách từ nhỏ, năm 1743 thi đỗ Hương giải, có chí làm quan. Nhưng Đàng Ngoài rối loạn, tập đoàn thống trị Lê – Trịnh ngày càng rối ren, mục nát, Nguyễn Thiếp bỏ về nhà làm ruộng, dạy học và lúc rảnh lại đi đây đó khắp vùng núi Hồng, sông Lam để ngao du ngắm cảnh và kết bạn.
       Ông tới tận quê hương của Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng  để tưởng niệm và có dịp tìm hiểu ý chí của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm ở miền đất này. Khi tới đây ông đã viết bài thơ “Qua Trình Tuyền  miếu” nói trên.
 
Nguyễn Hoàng – Nhà nghiên cứu Hán-Nôm

Bài viết khác

Tác giả: minhtri